Đế quốc Nga Lịch_sử_Nga

Bài chi tiết: Đế quốc Nga

Pyotr Đại đế

Sa hoàng Pyotr I giải tán đội Cấm vệ quân streltzi cũ; hàng nghìn lính streltzi đã bị tử hình sau vụ binh biến của họ.Pyotr Đại đế thân chinh thống lĩnh Quân đội Nga tại trận Poltava.

Sa hoàng Pyotr I Đại đế (1672–1725), đã đưa chế độ quân chủ chuyên quyền vào nước Nga và đóng vai trò chủ chốt trong việc đưa đất nước mình vào hệ thống quốc gia châu Âu. Ông ngưỡng mộ vị Tuyển hầu tước vĩ đại của xứ Phổ - BrandenburgFriedrich Wilhelm I và cũng học hỏi những cải cách của ông này.[91] Từ sự khởi đầu bé nhỏ hồi thế kỷ 14 chỉ với Công quốc Moskva, nước Nga đã trở thành quốc gia lớn nhất thế giới ở thời Pyotr. Lớn gấp ba lần lục địa châu Âu, nước Nga trải dài trên đại lục Á-Âu từ biển Baltic tới Thái Bình Dương. Đa phần lãnh thổ được mở rộng trong thế kỷ 17, lên tới đỉnh điểm khi những người Nga đầu tiên tới định cư ở Thái Bình Dương giữa thế kỷ 17, việc tái chinh phục Kiev và sự hoà bình hoá các bộ tộc Siberi. Tuy nhiên, vùng đất rộng lớn này chỉ có dân số 14 triệu người. Các cánh đồng lúa mì kém xa so với nông nghiệp ở phương Tây (điều này có thể một phần vì điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là những mùa đông dài và thời gian trồng cấy ngắn[92] khiến hầu hết dân cư phải làm nông nghiệp. Chỉ một phần nhỏ dân cư sống ở các thị trấn. Nước Nga vẫn bị cô lập với con đường thương mại trên biển; thương mại và giao thông, sản xuất nội địa phụ thuộc vào các thay đổi theo mùa[92].

Các nỗ lực quân sự đầu tiên của Nga hoàng Pyotr là chiến đấu chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, chiếm được thị trấn Azov[93]. Sau đó ông quay sự chú ý sang phía bắc. Pyotr vẫn thiếu một cảng biển vững chắc ở phía bắc, ngoại trừ Arkhangelsk trên biển Trắng, nơi các cảng bị đóng băng chín tháng mỗi năm. Lối vào biển Baltic bị Thụy Điển phong toả, lãnh thổ nước này bao bọc nó từ cả ba phía. Các tham vọng của Pyotr về một "cánh cửa ra biển" đã khiến ông lập một liên minh bí mật năm 1699 với Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc LitvaĐan Mạch chống Thụy Điển dẫn tới cuộc Đại chiến Bắc Âu. Sau khi ông đại bại trước quân Thụy Điển trong trận Narva vào tháng 11 năm 1700, vào năm 1708 vua Thụy Điển là Karl XII tiến hành chinh phạt nước Nga. Quân đội Nga đã đánh tan quân Thụy Điển trong trận Lesnaya vào năm đó; năm sau, Quân đội Nga lại tạo một bước ngoặt khi giành chiến thắng lừng lẫy trước quân Thụy Điển trong trận Poltava (1709).[94]

Nhưng vào tháng 12 năm 1710, ông lại lâm chiến với Đế quốc Ottoman: quân Ottoman đông đảo hơn đã đại phá liên quân Nga - Moldavia trong trận chiến sông Pruth, và hậu quả của thất bại này là nước Nga mất thị trấn Azov. Mặt khác, Quân đội Nga vẫn liên tục đánh bại quân Thụy Điển trên chiến trường phương Bắc: Hải quân Thụy Điển mất uy thế trên vùng biển Baltic, và vua Karl XII chết vào năm 1718, rồi đến năm 1721, cuộc chiến tranh tàn khốc mới kết thúc khi nước Thụy Điển kiệt quệ chịu thua và tìm kiếm hoà bình với Nga Sa hoàng.[95][96] Pyotr đòi hỏi bốn tỉnh nằm ở phía nam và phía đông vịnh Phần Lan, và nhờ thế có được đường ra biển. Tại đó, vào năm 1703, ông lập ra thành phố sẽ thành kinh đô mới của nước Nga, Sankt Peterburg, như một "cánh cửa vào châu Âu" để thay thế kinh thành Moskva - từng là trung tâm văn hoá Nga từ lâu. Trong khi Nga hoàng Pyotr Đại Đế đưa đất nước lên thành cường quốc thì nước Ba Lan láng giềng lại suy yếu.[97] Sự can thiệp của Nga vào Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva, cùng với Nghị viện câm lặng, đánh dấu sự khởi đầu 200 năm đô hộ vùng này của Đế quốc Nga. Trong lễ mừng công thắng lợi của các cuộc chinh phục, Pyotr lấy danh hiệu "Hoàng đế và Sa hoàng", và nước Nga Sa hoàng chính thức trở thành Đế quốc Nga năm 1721.

Nga hoàng Pyotr I tái tổ chức chính quyền của mình theo các mô hình phương Tây, biến nước Nga trở thành một nhà nước chuyên chế. Ông thay thế Duma boyar (cộng đồng quý tộc) cũ bằng một nghị viện chín thành viên, đưa vào hoạt động một hội đồng nhà nước tối cao. Vùng nông thôn được chia thành các tỉnh và huyện mới. Pyotr nói với nghị viện rằng nhiệm vụ của họ là thu thuế. Đổi lại nguồn thu thuế đã tăng lên gấp ba trong thời gian cai trị của ông. Như một phần cuộc cải cách chính quyền, Giáo hội Chính Thống giáo được sáp nhập một phần vào cơ cấu hành chính quốc gia, để trở thành một công cụ của nhà nước. Pyotr bãi bỏ chế độ giáo trưởng và thay thế nó bằng một thể chế tập thể, hội đồng tôn giáo thần thánh, được lãnh đạo bởi một quan chức do chính quyền bổ nhiệm. Trong lúc ấy, tất cả dấu vết của một chính quyền tự quản địa phương đều bị xoá bỏ, và Pyotr vẫn tiếp tục và tăng cường các yêu cầu của những người tiền nhiệm về sự phục vụ nhà nước đối với mọi quý tộc.

Pyotr Đại đế qua đời năm 1725, để lại một triều đại kiệt lực và chưa có người thừa kế. Thời kỳ cầm quyền của ông đã làm dấy lên những câu hỏi về tình trạng lạc hậu của nước Nga, quan hệ của nước này với phương Tây, sự cần thiết phải tiến hành cải cách và các vấn đề nền tảng khác đã gây ra nhiều khó khăn với các hoàng đế sau này. Tuy thế, ông là vị Hoàng đế đã đặt ra những nền móng của một nhà nước hiện đại tại Nga. Sau này, cố lãnh tụ Liên Xô I. V. Stalin đã xem ông là một vị anh hùng.[91]

Cai trị Đế quốc (1725–1825)

Sau Nga hoàng Pyotr Đại Đế là những triều đại chẳng mấy nổi bật của Nữ hoàng Ekaterina IPyotr II.[98] Sau họ, Nữ hoàng Anna trị vì từ năm 1730 cho đến năm 1740, khi đó nước Nga tham chiến trong cuộc Chiến tranh Kế vị Ba Lan (1733) và gặt hái thắng lợi.[99] Từ năm 1736 cho đến năm 1739, Quân đội Nga họp binh với quân Áo, lâm chiến với Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman dưới thời Sultan Mahmud I.[100] Vào năm 1736, quân Nga chiếm được pháo đài Azov.[101] Nhưng quân Thổ Nhĩ Kỳ giành nhiều chiến thắng trước liên quân Nga - Áo vào năm 1737. Quân Áo, do sợ Quân đội Nga hoàng sẽ gây phương hại cho họ qua việc gặt hái nhiều thắng lợi, đã ký kết Hòa ước Beograd vào năm 1739, nhượng lại tất cả những vùng đất mà họ từng chiếm từ tay quân Thổ Nhĩ Kỳ. Cùng năm đó, Đế quốc Ottoman cũng giữ lấy được pháo đài Azov, người Nga phải rút mọi chiến thuyền và tàu buôn ra khỏi Biển Đen, đồng thời phải rút quân khỏi xứ Wallachia.[102] Trong giai đoạn 1725 - 1741, nền quân sự nước Nga chứng kiến một vị Nguyên soái tài năng là Burkhard Christoph von Münnich, ông đã lập nên nhiều chiến công.[103][104] Sau khi Nữ hoàng Anna qua đời vào năm 1740, một người họ hàng của bà là ấu chúa Ivan VI lên nối ngôi. Nhưng Công chúa Elizaveta Petrovna - con gái của Nga hoàng Pyotr Đại Đế - soán ngôi, lên làm Nữ hoàng.[99] Vào năm 1743, Quân đội Nga đánh tan tác quân Thụy Điển.[105]

Tôi lạy ngài, ngài hãy nói cho tôi nghe tại sao ngài lại nảy ra ý định viết về những con chó sói và gấu vùng Xibia đó?... Tôi khó có thể chịu nổi cái tư tưởng là bọn chúng cùng chung sống trên một bán cầu với tôi và ngài.
— Thư vua Friedrich II Đại Đế gửi đại văn hào Voltaire, khi ông nghĩ đến việc viết tiểu sử của Pyotr Đại Đế. Cho thấy sự kinh sợ người Nga của nhà vua.[106]

Từ năm 1740 cho đến năm 1786, có vua Friedrich II Đại Đế (tức Friedrich Độc Đáo) dấy lên, xây dựng Vương quốc Phổ cường thịnh. Ông là một vị vua lớn của Vương triều Hohenzollern.[107] Một loạt chiến thắng oanh liệt của quân Phổ trong hai cuộc chiến tranh Silesia đã gây cho Triều đình Nga hoang mang lo sợ.[108] Nữ hoàng Elizaveta Petrovna đã tham chiến trong liên quân Áo - Pháp chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm vào năm 1756.[109] Không những thế, quân Thụy Điển cũng tham gia liên quân chống Phổ.[110] Quân Nga chiếm được vùng Đông Phổ vào năm 1758,[111] và nếu liên quân chống Phổ thắng lợi thì cả Vương quốc Phổ sẽ bị tiêu diệt.[111] Trong trận đánh ác liệt tại Kunersdorf (1759), nhà vua nước Phổ suýt bị quân Cozak Nga bắt sống, nhưng được quân sĩ Phổ cứu vãn.[112] Để bảo vệ đất nước, toàn quân và dân Phổ đã đấu tranh quyết liệt và gặt hái chiến thắng dưới sự thống lĩnh xuất sắc của vua Friedrich II Đại Đế,[113][114] trong khi đó Nữ hoàng Elizaveta Petrovna lại lâm trọng bệnh, và sẽ chết lúc nào không hay. Quả nhiên, vào năm 1762, bà mất, Đại Công tước Pyotr lên nối ngôi, tức Nga hoàng Pyotr III. Do rất ngưỡng mộ vua Friedrich II Đại Đế nên ông quyết định rút khỏi liên quân Pháp - Áo - Thụy Điển, mà thiết lập liên minh Nga - Phổ.[114]

Tượng đài Ekaterina II tại Sankt Peterburg.

Nguyên soái Zakhar Grigoryevich Chernyshov kéo quân đến đón chào vua Friedrich II Đại Đế và trao tặng ông Huy chương Thánh Anđrê.[115] Nga hoàng Pyotr III sống không được lâu: Nhận thấy ông không có khả năng, vợ ông là Ekaterina - nguyên là một Công nương người Đức - đã ưng thuận cho ám sát ông. Tin tức thông báo rằng ông bị chết vì "chứng ngập máu", và vào năm 1762 bà lên ngôi Nữ hoàng đế, tức Ekaterina II của Nga. Bà xé bỏ liên quân Nga - Phổ, thậm chí còn chuẩn bị tái chiến với nước Phổ, nhưng rồi bà lại đổi ý tôn trọng nền hòa bình với nước Phổ.[116] Sau đó, liên quân chống Phổ lần lượt tan rã.[117] Tuy những ý đồ xâm lược nước Phổ của Nữ hoàng Elizaveta Petrovna thất bại hoàn toàn, tuy nhiên nước Nga đã có được danh tiếng lớn trong cuộc Chiến tranh Bảy năm.[118] Cũng giống như Nga hoàng Pyotr Đại Đế, Nữ hoàng Ekaterina cũng được gọi là "Ekaterina Đại Đế", cũng khỏe mạnh khác thường, vô cùng năng nổ và còn quyết đoán nữa.[119] Bà đã góp phần vào sự hồi sinh của giới quý tộc Nga đã bắt đầu sau khi vua Pyotr Đại đế qua đời. Chế độ phục vụ nhà nước bắt buộc bị huỷ bỏ, và Ekaterina còn tạo điều kiện thuận lợi nữa cho giới quý tộc bằng cách chuyển hầu hết các chức năng chính quyền tại các tỉnh cho họ.

Ekaterina Đại đế đã mở rộng quyền kiểm soát chính trị của nước Nga đối với Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva thông qua nhiều hành động, bao gồm cả việc ủng hộ Liên minh Targowica, dù cái giá của các cuộc vận động của bà, phía trên hệ thống trấn áp xã hội đòi hỏi các nông nô phải dành toàn bộ cuộc đời làm việc trên các mảnh đất của lãnh chúa, gây ra một cuộc nổi dậy nông dân lớn năm 1773, sau khi Ekaterina hợp pháp hoá việc bán nông nô tách biệt khỏi ruộng đất. Với lời kêu gọi mạnh mẽ "Treo cổ tất cả các lãnh chúa!", một thủ lĩnh người Cozak là Yemyelyan Ivanovich Pugachyov đã tuyên bố ông trả thù cho Nga hoàng Pyotr III, đồng thời các thủ lĩnh tiêu biểu của quân nổi dậy đặt tên họ theo những viên quan lớn trong Triều đình Nga. Đây là một thách thức lớn đối với Nữ hoàng Ekaterina II,[120] quân nổi dậy đe doạ chiếm Moskva trước khi cuộc khởi nghĩa của họ bị dập tắt dữ dội. Ekaterina II bắt được Pugachev và treo cổ ông trên Quảng trường Đỏ[121], nhưng bóng ma cánh mạng vẫn tiếp tục theo đuổi bà và những vị vua nối nghiệp.

Đến cả vua Friedrich II Đại Đế cũng lo sợ trước sự phát triển hùng mạnh của nước Nga, sau những trận đánh ác liệt tại ZorndorfKunersdorf trong cuộc Chiến tranh Bảy năm vừa qua. Với chính sách tài tình của Triều đình Phổ, ông đã đẩy lui được mối đe dọa từ nước Nga hùng mạnh.[122] Vào năm 1769, ông nói với em trai của mình là Hoàng tử Heinrich rằng Đế quốc của Nữ hoàng Ekaterina II của Nga là một "Đế quốc khủng khiếp, sẽ làm cho cả châu Âu phải run sợ".[6] Thật vậy, từ năm 1768, Nữ hoàng Ekaterina II đã thành công trong việc phát động một cuộc chiến chống lại đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman đang suy tàn[123] và mở rộng lãnh thổ phía nam nước Nga tới biển Đen. Thời này nước Nga có Nguyên soái Pyotr Aleksandrovich Rumyantsev lập nhiều chiến công hiển hách, gây ấn tượng không nhỏ đến Tây Âu.[124] Cũng như vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ, ông rất được lòng toàn quân.[125] Vào năm 1774, sau một loạt chiến bại thảm hại của quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, nước Nga ký kết Hiệp ước Hòa bình với Thổ Nhĩ Kỳ: theo đó, Nga hoàng có quyền xây nên và bảo hộ Nhà thờ Chính Thống giáo ngay tại kinh đô Constantinopolis của Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman. Không những thế, Hãn quốc Krym độc lập không còn là một chư hầu của Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ nữa, nhưng Sultan Thổ trở thành vị Khalip của các tín đồ Hồi giáo xứ Krym. Nhưng vào năm 1780, Nữ hoàng còn nghĩ đến việc "giải phóng" thành Constantinopolis và biến nó thành một kinh đô mới của bà.[126]

Trong cuộc chiến tranh giữa Sultan Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế từ năm 1787 cho đến năm 1792, quân Thổ Nhĩ Kỳ lại bại trận, và xứ Krym chính thức rơi vào tay Đế quốc Nga.[101] Dù vậy, đây cũng là một cuộc chiến tranh đắt đỏ.[127] Vào năm 1764, nước Nga thiết lập liên minh với nước Phổ của vua Friedrich II Đại Đế.[122] Sau đó, bà cùng với các vua chúa Phổ và Áo[128] sáp nhập các lãnh thổ của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva: tại nơi đây, sau một thế kỷ chịu xiềng xích nô dịch của Nga hoàng, dân cư phi Công giáo La Mã chủ yếu là Chính Thống giáo đã chiếm ưu thế[129]) trong thời gian Phân chia Ba Lan, đẩy biên giới của Nga về phía tây tới Trung Âu. Với cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất vào năm 1772, Nữ hoàng Ekaterina II đã biến nước Nga thành một trong những cường quốc của châu Âu.[118]

Quân đội Nga của Đại nguyên soái Suvorov vượt dãy Anpơ năm 1799.Cuộc rút lui khỏi Moskva của Napoléon Bonaparte.

Liên minh Nga - Phổ cũng tan rã vào năm 1781, nhưng Triều đình vua Friedrich II Đại Đế vẫn giữ được uy thế của đất nước trên chính trường nhờ có một lực lượng Quân đội Phổ tinh nhuệ[122]. Sau khi ông qua đời vào năm 1786, Nữ hoàng Ekaterina II tiếp tục tiến hành phân chinh Ba Lan thêm hai lần nữa với cháu của ông là vua Friedrich Wilhelm II vào các năm 1793[130]1795.[131] Vào năm 1799, trước sự trỗi dậy của Pháp, Nga hoàng Pavel I triệu vị Nguyên soái xuất sắc là Aleksandr Vasilyevich Suvorov họp binh với nước Áo đánh đuổi quân Pháp tại Ý. Ông quyết định phaỉ giải phong Ý khỏi tay bọn địch, và thoạt đầu ông quét sạch quân Pháp ra khỏi Milan. Tiếp theo đó, quân địch cũng sạch bóng tại Torino trước sức tấn công của Suvorov và ba quân. Khi địch toan cô lập quân Áo tại sông Trebbia, Suvorov kéo đại binh đến đó diệt sạch quân Pháp. Nhưng tiếc thay, tại Thụy Sĩ liên quân Nga - Áo bị quân Pháp đánh bại, do đó Suvorov phải kéo đại binh tinh nhuệ đến đó để tiêu diệt bọn địch. Quân Pháp ráo riết vây hãm, Suvorov chặn đứng được bước tiến của địch và an toàn rút quân trở về.[132] Công cuộc mở mang nước Nga được vua Aleksandr I tiếp tục với việc tranh giành Phần Lan từ vương quốc Thụy Điển đang suy yếu năm 1809 và Bessarabia từ đế quốc Ottoman năm 1812. Sau một cuộc tranh cãi với Hoàng đế Aleksandr I, Napoléon đã mắc một sai lầm nghiêm trọng khi ông tuyên chiến với Nga và tiến hành cuộc xâm lược Nga năm 1812. Chiến dịch này là một thảm hoạ. Không thể đánh bại các đội quân thường trực của Nga, Napoléon tìm cách buộc hoàng đế Nga đầu hàng bằng cách chiếm Moskva ngay trước mùa đông. Mục đích này không đạt được. Không được chuẩn bị cho cuộc chiến trong giá lạnh mùa đông Nga, hàng nghìn quân Pháp bị các chiến binh du kích Nga phục kích và tiêu diệt. Khi các lực lượng của Napoléon rút lui, quân Nga truy đổi họ tới Trung và Tây Âu và tới các cổng thành Paris. Trong khi năm xưa Nga hoàng Aleksei I (m. năm 1676) rất ít được biết đến tại cung đình Versailles của vua Louis XIV, thì nay Nga hoàng Aleksandr I đã chiến thắng tiến vào kinh thành Paris.[119]

Sau khi Nga và các đồng minh đánh bại Napoléon, Aleksandr bắt đầu được biết đến như là 'người cứu vãn châu Âu', và ông là chủ tọa trong việc vẽ lại bản đồ châu Âu tại Hội nghị Viên (1815), trong đó biến Aleksandr thành vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan. Dù Đế quốc Nga sẽ đóng một vai trò chính trị hàng đầu trong thế kỷ tiếp sau và trở thành một "tên sem đầm của châu Âu" bất khả chiến bại[119], nhờ thắng lợi trước quân Pháp của Napoléon, nó vẫn duy trì chế độ nông nô và không để kinh tế phát triển ở bất kỳ mức độ nào. Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Tây Âu gia tăng trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, thương mại trên biển và việc khai thác các thuộc địa đã bắt đầu ở nửa sau thế kỷ 18, nước Nga bắt đầu tụt lùi xa phía sau, tạo ra các vấn đề mới cho đế chế với tư cách một cường quốc.

Đế quốc Nga sau cuộc Nổi dậy tháng Chạp (1825–1917)

Nikolai I và cuộc Nổi dậy tháng Chạp

Người nổi dậy tại Quảng trường nghị viện.

Sức mạnh cường quốc của Nga sút giảm vì tính kém hiệu quả của chính quyền, sự cô lập của dân cư, và sự tụt hậu kinh tế[133]. Sau khi đánh bại quân Napoléon, vua Aleksandr I muốn thảo luận các cuộc cải cách hiến pháp, và dù một ít biện pháp đã được đưa ra, không có thay đổi thật sự nào diễn ra[134].

Em trai của Hoàng đế Aleksandr I là Nikolai I (1825–1855) lên nối ngôi anh và ngay từ buổi đầu cầm quyền đã phải đương đầu với một cuộc nổi dậy. Nguyên nhân của cuộc nổi loạn này bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh Napoléon, khi một số sĩ quan có học thức của Nga đến châu Âu trong các chiến dịch quân sự, nơi họ học được chủ nghĩa tự do Tây Âu và muốn có sự thay đổi với chế độ chuyên chế Nga. Kết quả là cuộc Nổi dậy tháng Chạp (tháng 12 năm 1825), một nhóm nhỏ quý tộc và sĩ quan quân đội theo đường lối tự do muốn đưa em Nikolai I lên làm một vị hoàng đế lập hiến. Nhưng cuộc nổi dậy đã bị dập tắt dễ dàng, khiến Nikolai I quay lưng lại với chương trình Tây phương hóa đã khởi đầu từ thời vua Pyotr Đại đế và đề cao châm ngôn "Chuyên chế, Chính Thống giáo, và Quốc gia."[135]

Những thập kỷ đầu thế kỷ 19, nước Nga mở rộng tới Nam Kavkaz và các cao nguyên Bắc Kavkaz[136]. Vào năm 1831, vua Nikolai I dẹp tan cuộc một cuộc khởi nghĩa lớn tại Vương quốc Lập hiến Ba Lan; tiếp sau đó, là một cuộc khởi nghĩa lớn khác của người Ba Lan và người Litva vào năm 1863, bị vua Aleksandr II tiến hành đàn áp[137].

Sự phân chia ý thức hệ và phản ứng

Mikhail Aleksandrovich Bakunin

Trong hoàn cảnh này Mikhail Aleksandrovich Bakunin xuất hiện như người cha của chủ nghĩa vô chính phủ. Ông đã rời Nga năm 1842 tới Tây Âu, nơi ông hoạt động tích cực trong phong trào xã hội. Sau khi tham gia vào cuộc Khởi nghĩa tháng Năm tại Dresden năm 1849, ông bị bỏ tù và bị đưa tới Siberi, nhưng cuối cùng ông đã trốn thoát và quay trở lại châu Âu. Tại đây ông đã hợp tác cùng Karl Marx, dù có những sự khác biệt lớn trong ý thức hệ và chiến thuật. Các học thuyết xã hội khác cũng được những người Nga cấp tiến đưa ra như Aleksandr Ivanovich HerzenPyotr Alekxeyevich Kropotkin.

Vấn đề phương hướng của nước Nga đã dấy lên thậm chí từ chương trình Tây phương hóa của Pyotr Đại đế. Một số người muốn học tập châu Âu trong khi số khác bác bỏ và kêu gọi một sự quay trở lại với các truyền thống quá khứ. Ý tưởng sau này được những người thân Slav ủng hộ. Những người thân Slav phản đối chủ nghĩa quan liêu, ủng hộ chủ nghĩa tập thể của mir, hay cộng đồng làng của Nga thời Trung cổ, chứ không phải chủ nghĩa cá nhân của phương Tây.

Aleksandr II và sự xoá bỏ chế độ nông nô

Hoàng đế Nikolai I qua đời khi triết lý của ông vẫn còn đang bị tranh cãi. Một năm trước đó, nước Nga đã tham gia vào cuộc Chiến tranh Krym, một cuộc xung đột chủ yếu diễn ra trên bán đảo Krym[138]. Từ khi đóng một vai trò chính khi đánh bại Napoléon, nước Nga đã được coi là một cường quốc quân sự không thể bị đánh bại, nhưng, khi phải đối đầu với một liên minh các cường quốc châu Âu, những tổn thất họ phải chịu trên đất liền và trên biển đã cho thấy sự tàn tạ và yếu kém của triều đình Nikolai I.

Khi hoàng đế Aleksandr II lên ngôi năm 1855, ước muốn cải cách đã lan rộng. Một phong trào nhân đạo đang phát triển, ở những năm sau này đã liên kết với phong trào bãi nôHoa Kỳ trước cuộc nội chiến nước này, tấn công chế độ nông nô. Năm 1859, có 23 triệu nông nô (tổng dân số Nga khi đó là 67,1 triệu người)[139], sống trong những điều kiện thường là tồi tệ hơn so với các nông dân Tây Âu tại các thái ấp thế kỷ 16. Aleksandr II đã chủ động tiến hành giải phóng nông nô từ những nguyên nhân trên chứ không ngồi đợi nó sẽ bị xóa bỏ thông qua con đường cách mạng.

Cuộc giải phóng nông nô năm 1861 là sự kiện quan trọng duy nhất trong lịch sử Nga thế kỷ 19. Đó là sự khởi đầu của sự độc quyền quý tộc với đất đai. Cuộc giải phóng đã đưa các lao động tự do tới các thành phố, nền công nghiệp được thúc đẩy, và giới trung lưu bắt đầu tăng về số lượng cũng như tầm ảnh hưởng; tuy nhiên, thay vì được nhận đất đai như một món quà, các nông dân tự do lại phải trả một khoản thuế đặc biệt, được gọi là khoản chuộc, số tiền họ phải trả cho chính quyền trong cả đời, số tiền này sau đó lại được trả cho các lãnh chúa tương đương với giá trị vùng đất họ đã mất. Trong nhiều trường hợp các nông dân phải nhận các vùng đất cằn cỗi nhất. Tất cả đất đai được trao lại cho nông dân thuộc sở hữu tập thể của các mir, cộng đồng làng, cộng đồng này phân chia đất cho các nông dân và quản lý nhiều khu đất cho thuê. Mặc dù chế độ nông nô đã bị xóa bỏ, nhưng sự thực nó được hoàn thành không với mục đích chính là vì nông dân, những căng thẳng cách mạng không giảm bớt, dù vua Aleksandr II đã thực sự lưu tâm.

Cuối thập niên 1870 Nga và Thổ Nhĩ Kỳ một lần nữa đụng độ với nhau tại Balkan. Chiến tranh Nga-Thổ là cuộc chiến của nhân dân Nga, những người ủng hộ sự độc lập cho các đồng minh Slav Chính Thống giáo Đông phương: người Serbia và người Bulgaria. Tuy nhiên, cuộc chiến làm gia tăng căng thẳng với đế quốc Áo-Hung, liên minh cũng có tham vọng ở vùng này[140]. Trong giai đoạn này Đế quốc Nga đã mở rộng tới Trung Á, khu vực giàu khoáng sản, chinh phục các hãn quốc Kokand, BokharaKhiva. cũng như Vùng liên Caspi[141].

Chủ nghĩa vô chính phủ

Trong thập niên 1860 một phong trào được gọi là chủ nghĩa Nihil đã phát triển ở Nga. Nó là thuật ngữ lần đầu được Ivan Sergeyevich Turgenev đưa ra năm 1862 trong tiểu thuyết Cha và con của ông, những người vô chính phủ ủng hộ việc thủ tiêu các định chế và pháp luật của loài người, dựa trên ý tưởng rằng các định chế và pháp luật đó là giả tạo và sai lạc. Cốt lõi của nó, chủ nghĩa vô chính phủ Nga dựa trên niềm tin cho rằng thế giới thiếu ý nghĩa, sự thực khách quan, hay giá trị có thể lĩnh hội được. Trong một số thời điểm nhiều người Nga theo chủ nghĩa tự do đã bất bình bởi cái họ coi là những cuộc tranh cãi vô bổ của giới trí thức. Những người vô chính phủ nghi ngờ tất cả các giá trị cũ và làm rung chuyển định chế Nga.[142]. Họ chuyển từ triết lý thuần túy sang trở thành một lực lượng chính trị chính sau khi tham gia vào quá trình cải cách. Con đường của họ càng trở nên dễ dàng hơn với các hoạt động của nhóm Cách mạng tháng Chạp, nổi dậy năm 1825, và sự khó khăn về tài chính, chính trị do cuộc Chiến tranh Krym, khiến nhiều người Nga mất lòng tin vào các định chế chính trị.

Những người vô chính phủ tìm cách tác động vào nông dân. Chiến dịch của họ, tập trung vào người dân thay vì giới quý tộc hay chúa đất, được gọi là phong trào "Dân ý" (Narodnik). Nó dựa trên niềm tin rằng người dân thường (được gọi trong tiếng Nga là narod) có ý chí và khả năng lãnh đạo quốc gia một cách hòa bình[143]. Trong khi phong trào "Dân ý" đang phát triển, triều đình nhanh chóng tìm cách tiêu diệt nó. Đương đầu với sự trấn áp của triều đình, nhóm cấp tiến của những người "Dân ý" ủng hộ và tiến hành khủng bố[144]. Người nọ tiếp người kia, các quan đại thần bị bắn hay bị đặt bom giết chết, bản thân nhà vua cũng từng bị mưu sát vài lần.[145] Điều này thể hiện sự phát triển của chủ nghĩa vô chính phủ Nga như một lực lượng cách mạng hùng mạnh. Cuối cùng, sau nhiều nỗ lực, hoàng đế Aleksandr II bị những người vô chính phủ ám sát bằng bom vào ngày 13 tháng 3 năm 1881, trên đường phố Sankt-Peterburg. Trớ trêu thay, trong ngay hôm ấy, ông đã phê duyệt một bản Tuyên cáo—còn gọi là Hiến pháp Loris-Melikov—theo đó thành lập hai ủy ban lập pháp, gồm những đại biểu được gián tiếp bầu chọn.[145]

Sự chuyên quyền và bảo thủ dưới triều Aleksandr III

Khác với vua cha, tân hoàng đế Aleksandr III (1881–1894) trong suốt thời gian cầm quyền của mình đã khôi phục lại châm ngôn "Chính Thống giáo, Chuyên chế, và Dân tộc"[146]. Là một người thân Slav rõ rệt, Aleksandr III tin rằng Nga có thể thoát khỏi hỗn loạn chỉ bằng cách cắt bỏ mọi ảnh hưởng mang tính phá hoại của Tây Âu. Trong thời gian cầm quyền của ông nước Nga đã ký liên minh với Cộng hoà Pháp để kiềm chế đế chế Đức đang trỗi dậy, hoàn thành cuộc chinh phục Trung Á, và yêu cầu những nhượng bộ quan trọng về lãnh thổ và thương mại từ Trung Quốc.

Quân đội Nga rút lui sau Trận Phụng Thiên (Mukden).

Cố vấn quan trọng nhất của hoàng đế Nga là Konstantin Petrovich Pobedonostsev, thầy dạy của Aleksandr III và con trai ông là Nikolai, và là người đại diện của Hội đồng tôn giáo thần thánh từ năm 1880 tới năm 1895. Ông dạy các học trò hoàng gia của mình sự e ngại tự do ngôn luận và báo chí và ghét bỏ dân chủ, hiến pháp cũng như hệ thống nghị viện[147]. Dưới tay Pobedonostsev, các cuộc cách mạng bị tiêu diệt[148] và một chính sách Nga hóa được tiến hành trên khắp đế quốc[149].

Nikolai II và một phong trào cách mạng mới

Thảm sát Chủ nhật đẫm máu tại kinh thành Sankt Peterburg.

Con trai của vua Aleksandr III là Nikolai II (1868–1918) lên nối ngôi năm 1894. Ông la vị Sa hoàng cuối cùng trong lịch sử nước Nga.[150] Cuộc cách mạng Công nghiệp, bắt đầu gây ảnh hưởng lớn tới nước Nga, tuy nhiên nó cũng tạo ra các lực lượng cuối cùng sẽ lật đổ Hoàng đế. Về mặt chính trị, các lực lượng đối lập đó được tổ chức thành ba đảng cạnh tranh lẫn nhau: Các nhóm tự do gồm các nhà tư bản công nghiệp và quý tộc, những người tin vào sự cải cách xã hội một cách hoà bình và một chế độ quân chủ lập hiến, đã thành lập Đảng Dân chủ Hiến pháp hay Kadets năm 1905[151]. Những người theo phong trào "Dân ý" thành lập Đảng Xã hội Cách mạng Nga hay Esers năm 1901, ủng hộ việc phân chia đất đai cho nông dân[152]. Một nhóm thứ ba và có tính chất cấp tiến hơn lập ra Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga hay RDSLP năm 1898; đảng này là thành phần chủ yếu của Chủ nghĩa Mác tại Nga.

Bản tuyên ngôn tháng Mười công nhận các quyền tự do dân sự và thiết lập nghị viện đầu tiên.

Năm 1903 RDSLP phân chia thành hai phái: những người Bolshevik cấp tiến, do Lenin lãnh đạo, và phái ôn hoà hơn Menshevik, do một người bạn trước đây của Lenin là Yuli Martov (Yuli Osipovich Zederbaum) lãnh đạo[153]. Những người Menshevik tin rằng chủ nghĩa xã hội Nga sẽ dần phát triển một cách hoà bình và rằng chế độ Sa hoàng sẽ được kế tục bởi một nền cộng hoà dân chủ. Những người Bolshevik, dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, ủng hộ việc thành lập một nhóm nhỏ các nhà cách mạng chuyên nghiệp, tuân thủ triệt để kỷ luật đảng, để trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản nhằm chiếm chính quyền bằng vũ lực.[154]

Trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904 - 1905), quân Nhật đánh tan tác Quân đội Nga hoàng trên cả bộ lẫn thủy. Chiến thắng của quân Nhật trong cuộc chiến tranh này gây tiếng vang lớn, và trở thành một trong những thảm họa lớn mà châu Âu từng gặp phải.[155] Khả năng tác chiến tồi tệ của Quân đội Nga hoàng trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật là một cú đấm quyết định với quốc gia Nga và gia tăng tiềm năng cho sự náo loạn[156] Tháng 1 năm 1905, một vụ việc được gọi là "Chủ nhật đẫm máu" xảy ra khi Cha Gapon dẫn đầu một đám đông người tới Cung điện Mùa Đông tại kinh thành Sankt Peterburg để đệ trình một yêu sách tới hoàng đế. Khi đám người tới cung điện, lính Cozak nổ súng vào họ, giết hại hàng trăm người[157]. Dân chúng Nga xúc động mạnh trước cuộc thảm sát tới mức thực hiện tổng đình công. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của Cách mạng Nga 1905. Các Xô viết xuất hiện ở hầu hết các thành phố.

Tháng 10 năm 1905, Nikolai chần chừ trong việc đưa ra Bản tuyên ngôn Tháng Mười nổi tiếng, dẫn tới sự thành lập ngay lập tức một Duma quốc gia (lập pháp)[157]. Quyền bỏ phiếu được mở rộng[158], và không điều luật nào có hiệu lực khi chưa có sự phê chuẩn của Duma[158]. Các nhóm ôn hoà tỏ ra hài lòng[157]; nhưng những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội cho rằng chúng còn chưa đủ và muốn có những cải cách lớn hơn nữa[158]. Tới cuối năm 1905, Nga hoàng giải tán Duma[158].

Cách mạng Nga

Bài chi tiết: Cách mạng Nga 1917

Bị ràng buộc bởi hiệp ước, hoàng đế Nikolai II và thần dân của mình bước vào Chiến tranh thế giới thứ nhất để bảo vệ Serbia. Khi những sự việc thù địch bắt đầu diễn ra tháng 8 năm 1914, nước Nga chống lại cả Đứcđế quốc Áo-Hung để hỗ trợ đồng minh Pháp[159].

Sau này, các thất bại quân sự và sự kém hiệu quả của cơ chế quan liêu nhanh chóng biến nhiều thành phần dân chúng quay sang chống lại chính phủ[157]. Việc hạm đội Đức kiểm soát biển Baltic và các lực lượng hỗn hợp Đức-Ottoman kiểm soát biển Đen khiến Nga không thể nhập khẩu các nguồn nguyên liệu và xuất khẩu hàng hóa[157].

Tới giữa năm 1915 hậu quả của cuộc chiến tranh đã làm nản lòng dân chúng. Lương thực và nhiên liệu thiếu hụt, thương vong tiếp tục tăng cao, và lạm phát nhảy vọt[160]. Những cuộc đình công liên tục diễn ra trong giới thợ thuyền xí nghiệp được trả lương thấp và nông dân, những người mong muốn cải cách ruộng đất[160]. Trong lúc ấy, sự mất lòng tin vào chế độ càng trở nên sâu sắc bởi các báo cáo rằng một người bán-học thức thần bí, cha bề trên Grigori Efimovich Rasputin, có ảnh hưởng chính trị lớn bên trong triều đình. Vụ ám sát ông vào cuối năm 1916 đã làm chấm dứt vụ việc nhưng không vãn hồi được hình ảnh của chế độ chuyên chế[157].

Ngày 3 tháng 3 năm 1917, một cuộc đình công diễn ra trong một nhà máy tại kinh đô Petrograd (trước kia là Sankt Peterburg). Vào ngày 23 tháng 2 (8 tháng 3 theo lịch Gregory) năm 1917, Ngày Quốc tế Phụ nữ, hàng nghìn thợ dệt nữ ở Petrograd tuần hành bên ngoài nhà máy phản đối sự thiếu hụt lương thực và kêu gọi những người thợ khác cùng gia nhập. Trong nhiều ngày, gần như toàn bộ công nhân ở thành phố đều nghỉ việc. Khi hoàng đế ra lệnh cho Duma giải tán, ra lệnh cho công nhân đình công trở lại làm việc, và ra lệnh cho quân đội bắn vào người biểu tình trên phố, các mệnh lệnh của ông đã dẫn tới cuộc Cách mạng Tháng Hai. Ngày 2 tháng 3 (15 tháng 3), Nikolai II thoái vị. Để lấp khoảng trống quyền lực, Duma tuyên bố thành lập một Chính phủ Lâm thời, do công tước Lvov lãnh đạo[161]. Trong lúc ấy, những người theo chủ nghĩa xã hội tại Petrograd đã tổ chức bầu cử trong công nhân và binh sĩ để lập ra một Xô viết (hội đồng) của các đại biểu công nhân và binh sĩ, như một tổ chức quyền lực nhân dân có thể gây áp lực lên Chính phủ Lâm thời của giai cấp tư sản[161].

Tháng 7, sau một loạt vụ khủng hoảng khiến Chính phủ Lâm thời mất uy tín với nhân dân, lãnh đạo chính phủ từ chức và được kế tục bởi Aleksandr Kerensky, người có tư tưởng cấp tiến hơn người tiền nhiệm. Khi chính phủ của Kerensky còn chưa đạt tiến bộ gì, Xô viết do những người theo chủ nghĩa xã hội lãnh đạo tại Petrograd đã gia nhập cùng các Xô viết được thành lập nên trên khắp đất nước để tạo ra một phong trào quốc gia.

V. I. Lenin từ nơi bị trục xuất, Thụy Sĩ, quay trở về nước Nga. Có người cho rằng sự nghiệp cách mạng của ông đã nhận được sự giúp đỡ về tài chính từ đế chế Đức. Họ cho rằng Lenin đã nhận được tiền bạc từ tay một nhà tư sản Đức tên là Parvus. Tuy nhiên, nghiên cứu của nhà sử học nổi tiếng người Nga Vladlen Loginov không có những tình tiết này, ông từng nói "Cách mạng cần được thực hiện bằng những bàn tay trong sạch".[162] Các Xô viết nắm quyền kiểm soát chính phủ tháng 11 năm 1917, và lật đổ Kerensky cùng Chính phủ Lâm thời lâm thời của ông, trong những sự kiện sẽ được gọi là cuộc Cách mạng Tháng Mười.

Khi Quốc hội Lập hiến Nga, được bầu tháng 12 năm 1917 và nhóm họp tháng 1 năm 1918, nhưng ngay sau đó bị những người Bolshevik giải tán[163]. Phe Bolshevik triệu tập Đại hội Xô viết toàn Nga để thay thế Quốc hội Lập hiến Nga trong đó người Bolshevik chiếm ưu thế. Khi phe đối lập đã bị loại trừ, Lenin đã có thể rút chế độ của mình khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất theo Hiệp ước Brest-Litovsk (1918) ký kết với Đức, theo đó Nga mất các lãnh thổ Phần Lan, Estonia, Litva, Ba Lan, các phần lãnh thổ của Latvia và Belarus (đường Riga-Dvinsk-Druia-Drisvyaty-Mikhalishki-Dzevalishki-Dokudova-sông Neman-sông Yelvyanka-Pruzhany-Vidoml), và các lãnh thổ đã chiếm được từ Đế quốc Ottoman trong Chiến tranh thế giới thứ nhất[164]. Ngày 13 tháng 11 năm 1918, chính phủ Xô viết xé bỏ Hiệp ước Brest[165].

Nội chiến Nga

Bài chi tiết: Nội chiến Nga

Phe Bolshevik nắm được quyền lực nhưng còn chưa vững chắc và một cuộc tranh giành kéo dài nổ ra giữa chế độ mới và các đối thủ, gồm cả phe Cách mạng Xã hội chủ nghĩa. "Bạch vệ" cánh hữu và một số lượng lớn nông dân. Cùng thời điểm ấy Các cường quốc đồng minh gửi nhiều đội quân viễn chinh tới hỗ trợ các lực lượng chống cộng trong một nỗ lực buộc nước Nga phải tái tham gia cuộc chiến tranh thế giới. Những người Bolshevik đã chiến đấu chống lại các lực lượng đó và chống lại các phong trào độc lập quốc gia cũ của Đế quốc Nga. Tới năm 1921, họ đã đánh bại các kẻ thù bên trong và đưa hầu hết các quốc gia mới độc lập vào vòng kiểm soát, ngoại trừ Phần Lan, các quốc gia vùng Baltic, Cộng hoà Dân chủ Moldavia (đã gia nhập România) và Ba Lan (là nước tham gia Chiến tranh Ba Lan-Xô viết với họ)[166]. Phần Lan cũng sáp nhập vùng Pechenga của bán đảo Kola Nga, Romania sáp nhập Bắc Bukovina; nước Nga Xô viết và các nước cộng hoà Xô viết đồng minh trả một số phần lãnh thổ cho Estonia (Pechory và hữu ngạn Narva), Latvia (Pytalovo) và Thổ Nhĩ Kỳ (Kars). Ba Lan sáp nhập lãnh thổ tranh chấp Tây BelarusTây Ukraina, những vùng cũ của Đế quốc Nga (ngoại trừ Galicia) phía đông Đường Curzon.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Nga http://www.allempires.com/article/index.php?q=The_... http://www.anneapplebaum.com/communism/2000/06_15_... http://www.bartleby.com/65/e-/E-Pozharsk.html http://www.bartleby.com/65/iv/Ivan3.html http://www.bookrags.com/biography/emelyan-ivanovic... http://www.britannica.com/eb/article-3598 http://www.britannica.com/eb/article-9057004/Oleg http://www.britannica.com/eb/article-9057487/Ortho... http://www.britannica.com/eb/article-9064445/Rurik http://www.britannica.com/eb/article-9073517